275 câu tục ngữ ca dao Việt Nam (P2)

in ca •  6 years ago 

Tập 2

M
Ma cũ bắt nạt ma mới:  người cũ thường ỷ mình thạo việc, quen nhiều mà chèn ép người mới
Ma chê cưới trách:  những đám ma đám cưới, dù cử hành đúng lễ đến đâu cũng bị người ta phê bình, chê trách, bởi lẽ phong tục mỗi nơi mỗi khác, ý mỗi người mỗi khác.
Ma trêu quỉ ám:  dục tình quá mạnh, xúi con người mất cả lương tri,, quên cả khôn dại,tốt xấu, đến làm việc dại dột, loạn luân
Mang nặng đẻ đau:  chỉ công khó nhọc của cha mẹ đối với con cái khi mang thai nặng nề, lắm khi bệnh hoạn vì cái thai, lúc sinh con thì phải trải qua cơn đau đớn kinh khủng, có khi chết vì trắc trở
Mạnh về gạo, bạo về tiền:  giầu có đen cũng thay trắng được, sai quấy cũng ra phải được
Máu chảy ruột mềm:  người cùng máu mủ họ hàng bị hoạn nạn thì mình cảm thấy đau đớn lây
Máu loãng còn hơn nước lã:  bà con xa vẫn còn thân hơn người dưng
Mất trộm mới rào giậu:  ngày thường không lo, bị hại mới đề phòng
Mẹ gà con vịt: không phải con mình sinh ra (mẹ gà con vịt chít chiu, mấy đời dì ghẻ nâng niu con chồng)
Mẹ hát con khen hay:  người cùng bọn tán tụng nhau. Óc chủ quan chỉ thấy cái hay của phe mình
Mẹ cha nuôi con bằng trời bằng bể, con nuôi cha mẹ con kể từng ngày:  cha mẹ nuôi con không tính toán, con nuôi cha mẹ con tính toán, hạn chế, lẽ thường là vậy
Mẹ tròn, con vuông: lời chúc đàn bà sinh con toàn vẹn, không bệnh tật, sức khỏe như trời tròn, như đất vuông
Mèo già hóa cáo:  người tinh ranh, càng lớn tuổi càng nhiều kinh nghiệm gian xảo hơn
Mèo khen mèo dài đuôi:  khoe mình, cái gì mình làm ra thì khéo thì hay
Mèo mả gà đồng:  trai gái tư tình hẹn hò với nhau
Mền nắn, rắn buông:  ăn hiếp người hiền lành, thật thà, gặp người cứng cỏi thì chịu thua
Miếng ăn là miếng nhục:  ăn uống, quyền lợi thường làm cho anh em kình địch nhau
Miếng giữa làng bằng sàng xó bếp:  nghèo được dân ca ngợi, hơn giầu mà âm ỉ trong nhà
Miếng ngon nhớ lâu, đòn đau nhớ đời:  việc tốt thì nhớ hoài, thù sâu ghim vào dạ
Miệng kẻ sang có gang có thép:  người quyền quí nói ra được tôi tớ tuân theo
Miệng nam mô, bụng bồ dao găm:  miệng nói hiền nhưng lòng ác độc
Mỏng môi hay hớt:  kinh nghiệm dân gian
Mồ cha không khóc, đi khóc đống mối:  giầu tình cảm, nhưng lầm chỗ
Một câu nhịn chín câu lành:  nhịn được ai thì hậu quả tốt sẽ đến có khi không ngờ
Một con én không làm nên mùa xuân:  một người dẫu tài cũng không làm nên việc, cần nhiều người
Một con ngựa đau, cả tàu chê cỏ:  đồng bọn có tình thương nhau, một người mắc nạn, mọi người thông cảm
Một cổ hai tròng:  một mình 2 gánh, vất vả, khó liệu
Một chữ nên thày, một ngày nên nghĩa:  học với ai ít chữ, lấy nhau chưa lâu,cũng không nên bội bạc nhau
Một đời ta, ba đời nó:  không nên hà tiện, lấy thân che của
Một giọt máu đào hơn ao nước lã:  bà con dầu xa vẫn hơn người dưng
Một mất mười ngờ:  khi mất vật gì, người ta thường ngờ cho tất cả những ai có thể ngờ
Một miếng khi đói bằng gói khi no:  giúp người khi họ ngặt nghèo mới quí
Một người làm quan, cả họ được nhờ:   ở nước chậm tiến người ta kiêng nể kẻ có quyền
Mở miệng mắc quai:  vừa nói một lời đã chịu trách nhiệm
Mũ ni che tai, việc ai cũng biết:  tu hành gác bỏ sự đời, nhưng lại tò mò làm ngược lại
Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng:  muốn có danh thơm phải cố gắng nhiều, muốn làm hư danh thì không khó
Mua pháo mượn người đốt:  góp công sức mình, mà người khác được khen
Múa vụng chê đất lệch:  làm hư việc rồi kiếm cớ đổ thừa, không nhận mình dở
Muốn ăn phải lăn vào bếp:  muốn được việc phải gắng sức
Muốn là được:  nếu thật lòng, gắng sức làm, sẽ nên công việc
Mưa lúc nào mát mặt lúc ấy: lợi dụng hiện tại, không nên đòi quá
Mười voi không được bát nước xáo:  khoe khoang, hứa hẹn mà kết quả không ra gì
Mượn đầu heo nấu cháo:  vay chỗ nọ bù đắp chỗ kia
Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên:  con người tính toán, trời cho xong việc mới được

N
Nam nữ thọ thọ bất thân:  quan niệm các cụ xưa: trai gái trao hay nhận vật gì, không được dùng tay chạm vào nhau
Nằm trong chăn mới biết chăn có rận(rệp):  có ở trong cuộc mới biết nỗi khó khăn của việc làm, hay điều xấu của người đồng bọn
Năng nhặt chặt bị:  góp mỗi lúc một ít, lâu ngày sẽ thành nhiều
Nắng chiều nào che chiều nấy:  không lý tưởng, theo thời cuộc mà xoay xở, bỏ cái cũ
Nâng như trứng, hứng như hoa:  nương chiều quá lắm
Ném đá giấu tay:  làm chuyện mờ ám, gây xáo trộn để người khác bị nghi oan
Ném tiền qua cửa sổ:  phung phí tiền bạc, xài không đúng chuyện
No mất ngon, giận mất khôn:  tức lên nói bừa, lỡ lời, gây hại
No ra bụt, đói ra ma:  người đủ ăn dễ giữ đạo làm người, người túng thiếu hay làm liều
Nói có sách, mách có chứng:  lời trình bày có nhân chứng, vật chứng
Nói một đàng, quàng một nẻo:  người nói với ý này, người nghe bẻ ra ý khác, sinh cãi vã
Nói ngọt lọt đến xương:  lời ngon ngọt dễ thấm, chuyện khó thành dễ, chuyện dở hóa lành
Nói như đinh đóng cột:  nói chắc một lời, không sửa đổi
Nói như nước đổ lá khoai (môn):  nói với người không biết nghe, không kết quả
Nói dối sám hối bảy ngày:   nói dối luôn có hậu quả tai hại
Nồi nào vung nấy:  chồng thế nào thì vợ thế ấy, vợ chồng rất xứng đôi
Nợ như chúa chổm: nói về ông Lê Duy Huyên hồi chưa làm vua mắc nợ rất nhiều, sau ông lên làm vua Lê Trung Tông nhà Lê.
Nuôi ong trong tay áo:  chứa chấp nuôi dưỡng kẻ không biết điều thường bị chúng lấy ơn làm oán mà hại mình.
Nước chảy đá mòn:  nước róc rách chảy lâu ngày cũng làm mòn đá, người tối dạ tới đâu cố gắng học cũng giỏi.
Nước đến chân mới nhảy:  người không lo suy tính trước, nhiều khi lỡ việc.
Nước lã vã nên hồ:  việc chẳng có chi hoặc rất nhỏ mà gây thành chuyện lớn.
Nước mắt chảy xuôi:  tình cảm giữa người thân bao giờ cũng bắt đầu từ trên đi xuống.  Ông bà cha mẹ thương con cháu nhiều hơn là con cháu thương ông bà.

NG
Ngang như cua:  nói ngược, không thuận tai, khó được chấp nhận
Ngồi lê đôi mách:  tới nhà ai, kể chuyện hàng xóm và chê khen thêm bớt.
Ngồi mát ăn bát vàng:  ở không mà được hưởng sung sướng.
Ngủ ngày quen mắt, ăn vặt quen mồm: tật xấu dễ thành thói quen
Ngựa quen đường cũ:  thói quen khó bỏ, làm việc xấu dầu được khuyên bảo, cũng nhớ chuyện cũ mà làm quấy lại.
Người ăn ốc, kẻ đổ vỏ: người được hưởng lợi bỏ đi, kẻ khác đến sửa sang tu bổ.
Người ăn thì có, người mó thì không:  một đám người hầu hết chỉ ăn, không làm chi cả.
Người ăn thì còn, con ăn thì hết:  cho người ta món quà, họ sẽ biếu lại món khác, cho con cái, chúng ăn hết, đâu biếu lại gì
Người bảy mươi học người bảy mốt:  không ai dám phụ rằng khôn, rằng biết đủ mọi việc dù cho học nhiều cũng cần học hỏi thêm với người lớn tuổi có nhiều kinh nghiệm.
Người đẹp về lụa, lúa tốt về phân:  người dầu không đẹp nhưng biết cách trang điểm, mặc quần áo tốt cũng dễ coi.
Người đi không bực bằng người chực nồi cơm: một người đi, người ở lại, người ở lại muốn biết kết quả công việc và chờ đợi ở người kia nên thấy thời giờ đi rất lâu.
Người gầy thầy cơm:  người ốm thường mạnh ăn
Người khôn của khó:  người khôn như vật quý rất ít và khó tìm ra.
Người không học như ngọc không mài:  người khôn cần học để biết sự đời, ngọc quí cần được mài dũa để thành vật trang sức quý giá.
Người là vàng, của là ngãi:  mạng người bao giờ cũng quí hơn bất kì của cải nào dù cao giá đến đâu
Người làm sao chiêm bao làm vậy:  người thế nào thì ước mơ thế ấy, người tham ước được của, người cờ bạc ước được tiền, người lành ước mơ có dịp giúp người.

NGH
Nghe hơi nồi chõ:  hay tin nhà nào có đám tiệc hoặc đình chùa có cúng thì tìm đến kiếm ăn.
Nghe như vịt nghe sấm:  nghe những lời lẽ cao siêu, những lời lẽ quá tầm hiểu biết nên chẳng hiểu chi hết.
Nghèo (đói) cho sạch, rách cho thơm: giàu nghèo cũng nên giữ mình cho trong sạch, không gian tham, không làm sỉ nhục đến thanh danh.
Nghèo rớt mồng tơi:  nghèo quá không đủ ăn, đủ mặc.
Nghĩa tử là nghĩa tận:  chết là hết, thực ra còn nhiều niềm tin khác…

NH
Nhà giầu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột: nhà giàu không quen cực khổ, hễ gặp phải trở ngại sơ sài hay đau ốm chút đỉnh là lo lắng lăng xăng, lại cũng sẵn tiền dám chịu tốn hao, ngược lại nhà nghèo đã quen dày dạn, và không sẵn tiền, nên để lây lất cho qua những cơn rủi ro
Nhà giầu dẵm gai, bằng nhà khó gãy 2 xương sườn:  ý nghĩa như trên.
Nhà ngói cây mít:  cất nhà thì nên cất nhà cho bền, trồng cây thì nên trồng cây mít vì loại này sống lâu, nghĩa bóng là cơ sở vững bền.
Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm:  nhà nào được quét dọn sạch sẽ, bàn ghế lau chùi trơn bóng ai bước vào cũng nghe hơi thở nhẹ nhàng, không khí mát mẻ dễ chịu.  Mâm cơm cũng vậy, bát đĩa láng sạch không có mùi hôi, dầu đồ ăn chẳng ngon, ai dùng bữa cũng thấy ngon.
Nhàn cư vi bất thiện:  ở không hay làm quấy.
Nhát như thỏ đế:  rất nhát không khác gì giống thỏ rừng luôn luôn ẩn núp trong đám cỏ.
Nhạt như nước ốc: nhạt lắm, không đậm đà niềm nở.    
Nhân vô thập toàn:  làm người không ai vẹn tròn được cả mười.
Nhập gia tùy tục, đáo giang tùy khúc:  đến đâu phải trọng phong tục ở đó.
Nhất con nhì cháu thứ sáu người dưng:  về mặt tình cảm phải lo con trước rồi mới đến cháu, có thừa lắm mới tới người xa lạ.
Nhất cử lưỡng tiện:  một công hai việc, làm một lần mà xong cả hai.
Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô:  dầu chỉ có một con trai cũng được kể là con mình, còn người con gái cũng kể như không có.  Con trai có con đều lấy họ nhà mình, con gái lấy chồng đều theo họ nhà chồng, đó là quan niệm thời trước.
Nhất quỉ nhì ma, thứ ba học trò:  học trò hay nghịch ngợm phá phách không khác gì ma quỷ.
Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh:  chuyên một nghề cho giỏi, thì thân được sướng.
Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ:  theo sự sắp hàng ngày trước, người theo nghề nghiên bút đứng trước người làm ruộng, nhưng khi đói kém thì người làm ruộng được đứng trên, vật gì cũng chẳng hơn đồng tiền bát gạo.
Nhất tội nhì nợ: khổ nhất là phạm tội, bị gông cùm, xa vợ con, thứ nhì là mắc nợ lo chạy ngược chạy xuôi.  Ở đời cần tránh hai việc đó.
Nhất vợ nhì Trời:  lời mai mỉa kẻ sợ vợ cho rằng trên đời kẻ ấy coi vợ trên hết rồi mới tới Trời, các việc khác ở sau.
Nhi nữ thường tình:  tính thông thường của phụ nữ là yếu ớt, hay mủi lòng, bịn rịn chồng con.
Nhịn đói nằm co, hơn ăn no phải làm: thà nhịn đói mà được ở không, sung sướng hơn là ăn no mà phải làm việc, đó là lý luận của kẻ lười biếng.
Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa:  đông người mà thiếu tổ chức phân công cho rành thì công việc không chạy, việc thì đôi ba người dành làm, việc thì không ai ngó tới.
Nhổ râu ông nọ cắm cằm bà kia:  làm việc lộn xộn, việc của ngưòi này cho là của người khác.
Như mèo thấy mỡ:  mèo thích mỡ, mừng rỡ vì bắt gặp điều mong ước đúng ý nguyện hay sở thích

Ô
Ông ăn chả bà ăn nem:  vợ chồng phân bì nhau để tranh nhau làm quấy thường là đi cờ bạc hay trai gái với người khác.
Ông nói gà bà nói vịt, ông bảo làm thịt, bà bảo để nuôi:  kẻ nói thế này, người nói thế khác không hợp ý nhau rồi kiếm chuyện cãi nhau.
Ông thầy khoe tốt, bà cốt khoe hay:  ai cũng khoe tài mình để kể công.
Ông Trời còn chẳng vừa lòng thiên hạ:  trời đất tuy rộng lớn người ta còn có chỗ hờn như mưa chiều nắng gió…không ai ở cho vừa lòng người, hễ được lòng người này thì mất lòng người kia, vì quyền lợi cá nhân luôn luôn xung đột, ý mỗi người mỗi khác.

Ơ
Ở bẩn sống lâu:  lời tỏ sự lời biếng.
Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài:  do ảnh hưởng của hoàn cảnh, của giáo dục, của sự chung đụng hằng ngày mà con người có tính tốt hay xấu
Ở chọn nơi, chơi chọn bạn:  nếu biết chọn nơi cao ráo mát mẻ hay tiện lợi cho cuộc làm ăn thì nên chọn, cũng nên chọn người tốt mà chơi để học hỏi thêm điều hay.
Ở hiền gặp lành:  ăn ở hiền lành thì được nhiều cảm tình của người chung quanh, nên được nhiều người giúp đỡ làm ăn xoay sở dễ chịu.
Ớt nào là ớt chẳng cay, gái nào là gái chẳng hay ghen chồng:  đàn bà ai cũng có máu ghen, mà hễ ghen thì mất sáng suốt làm nhiều điều có hại cho gia đình và mất danh giá của chồng.  Làm đàn ông phải biết điều đó mà tránh cho vợ ghen tương.

PH
Phấn giồi mặt ai nỡ giồi chân:  theo lẽ thường ở đời ai cũng làm điều phải để nêu danh thơm tiếng tốt.
Phóng lao phải theo lao:  đã bắt đầu làm việc gì, dầu khó cũng phải theo tới cùng mới hay
Phú quí sinh lễ nghĩa:   giàu sang rồi bày đặt khuôn phép nọ kia cho rắc rối.
Phúc đức tại mẫu:  con nhờ đức của mẹ.

Q
Qua sông phải lụy đò:  Muốn qua sông phải năn nỉ người ta chở thuyền đò.  Muốn xong việc mình phải hạ mình năn nỉ người giúp.
Quan nhất thời, dân vạn đại:  người chức việc chỉ làm một thời gian dài vắn, còn dân thì làm dân muôn đời, dầu chức trọng quyền cao thế nào khi về già cũng trở về với dân
Quen mui thấy mùi ăn mãi:  được lợi một lần ăn quen khai thác mãi.
Quí hồ tinh bất quí hồ đa:  cái quý là ở chỗ tinh ròng, phẩm chất, chớ không ở số nhiều về lượng
Quít làm cam chịu:  người này gây tội mà người khác bị oan ức.
Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách:  nước nhà còn hùng hay phải mất, một người dân thường cũng có trách nhiệm

R
Ra đường hỏi già, về nhà hỏi trẻ:   việc ngoài đường thì nên hỏi người lớn, người quen, việc trong nhà thì nên hỏi trẻ vì chúng hay nói thật, không biết dối quanh.
Rán sành ra mỡ:  có ít muốn lợi nhiều.
Râu ông cắm cằm bà:  lấy chỗ nọ vá chỗ kia để làm lợi cho mình.
Rối như canh hẹ:  chuyện khó giải quyết.  Hẹ nấu chín rối vào nhau khó múc.
Rủ nhau làm phúc, chớ rủ nhau đi kiện:  nên kiếm người làm tốt, hơn là rủ nhau đi kiện cáo, gây thù oán.
Rút giây động rừng:  nói một người động những người khác
Ruộng bề bề không bằng nghề trong tay:  ruộng đất rộng, tiền của nhiều chưa hẳn là sung sướng, vì còn sợ lo mất trộm, có ngày phải đói, nhưng có sẵn một nghề trong tay thì không sợ đói.
Rượu vào lời ra:   rượu uống vào thì ngà ngà say rồi sinh hứng nói chuyện lung tung nhiều khi đến cãi nhau.

S
Sa cơ lỡ bước:  rủi ro, lầm lỡ trong một lúc mà hại lâu
Sai một li đi một dặm:  tính sai một bước, việc có thể thất bại to.
Sáng tai ọ, điếc tai cày:  người làm biếng, bảo nghỉ thì nghe rất rõ nghỉ liền, nhưng bảo làm thì giả bộ không nghe cứ lờ đi mà chơi mãi.
Sau cơn mưa trời lại sáng:  hết hoạn nạn đến vinh quang.
Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì:  em trai thường giúp anh, em gái sẵn lòng giúp mẹ
Sẩy đàn tan nghé:  trâu con mà bị lạc đàn tức thì bị thú dữ ăn thịt.  Còn trẻ mà bỏ cha mẹ ở nhà đi hoang thế nào cũng hư.
Sấm bên đông động bên tây:  nói người này để nhắc nhớ người khác.
Sinh con ai dễ sinh lòng:  mẹ sinh hình hài con cái còn lòng nó thì tự nó có hoặc do ảnh hưởng bên ngoài hoặc do Trời ban cho.
Sinh, lão, bệnh, tử:  sinh ra, rồi già, rồi bệnh, rồi chết, 4 cái khổ của con người theo Phật giáo.
Sinh kí, tử qui:  sống ở, chết về.  Quan niệm xem đời là cõi tạm, chỗ ở đời đời là niết bàn hay thiên đàng, bởi vậy sống không mừng, chết không sợ.
Sinh li tử biệt:  sống thì xa nhau, chết thì biệt hẳn.Cảnh đau đớn giữa người thân với nhau.
Sinh vô gia cư, tử vô địa táng:  quá nghèo sống không nhà ở, chết không đất chôn.
Sông có khúc, người có lúc:  sông có khúc cạn khúc sâu, khúc quanh khúc thẳng, con người có lúc làm nên, có lúc suy sụp, bởi vậy không nên nản chí
Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi:  xem mạch bắt thuốc xong thì lấy tiền, còn bệnh có lành hoặc có chết, làm nên hay hư không cần biết đến nữa.
Sống để bụng, chết mang theo:  giữ việc bí mật cho đến chết chớ chẳng nói ra hoặc ôm mối thù trong lòng để chờ ngày trả thù cho bằng được
Sống đục sao bằng chết trong:  sống một đời nhục nhã sao bằng chết mà danh được trong sạch
Sống khôn chết thiêng:  khi còn sống đã có trí khôn hiểu biết mọi việc bây giờ chết rồi cũng nên linh thiêng mà chứng giám phù hộ.
Sống tết, chết giỗ:  cha mẹ còn sống thì mình phải  nuôi dưỡng kính trọng, mỗi ngày tết trong năm đều phải có lễ tết cho cha me, khi chết thì thờ kính cúng giỗ đàng hoàng.
Sợ người nói phải, hãi người cho ăn:  người nói phải sử xự đàng hoàng mình sợ đã đành, người mà mình làm công để sống cũng phải sợ, vì không vậy mình sẽ mất bát cơm.
Suy bụng ta ra bụng người:  ý mình thế nào thì ý người khác cũng vậy, nên ăn ở thế nào cho phải, chứ đừng dành cả phần lợi cho mình mà để thiệt cho người.  Bụng mình xấu rồi tưởng người ta cũng xấu như  mình.
Sư nói sư phải, vãi nói vãi hay:  óc chủ quan khiến ai cũng thấy chỉ có mình là hay là giỏi, nhất là hay dành phần phải về mình.

T
Tai bay vạ gió:  tai họa từ đâu đến cách bất ngờ.
Tai nghe không bằng mắt thấy:  nghe lời đồn đãi hoặc nghe người nói lại không đáng tin bằng chính mắt mình thấy.
Tai vách mạch rừng:  trẻ vô tình nghe lóm câu chuyện rồi đồn thổi ra ngoài, dù mình chỉ nói với người thân trong nhà.
Tay làm hàm nhai:  nghèo làm bữa nào ăn bữa nấy chứ không có dư.
Tay xách nách mang:  mang xách đùm đề.
Tam sao thất bản:  sao đi chép lại vài lần thì sai hẳn nguyên văn.  Kẻ nói đi người nói lại không thể đúng sự thật được.
Táng tận lương tâm:  tàn nhẫn, làm một việc hết sức độc ác không kể tình nghĩa hay phải trái chi cả.
Tắt lửa tối đèn:  lúc nhà có việc bất cứ lớn nhỏ đều cần có lối xóm giúp đỡ.
Tiên học lễ hậu học văn:  trước học cách sống, sau học chữ nghĩa
Tiên trách kỉ, hậu trách nhân:  trước cần trách mình, sau mới trách người.
Tiền dâm hậu thú:  lấy trước cưới sau.
Tiền mất tật mang:  chữa trị hết tiền mà bệnh tật vẫn còn
Tiền rừng bạc bể:  giàu có, tiền bạc man vàn
Tiền trao cháo múc:  mua bán sòng phẳng không nợ nần
Tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống:  nghèo có đồng nào xài hết đồng nấy
Tiếng chào cao hơn mâm cỗ:  xã giao lịch thiệp, kính trọng nhau quý hơn miếng ăn.
Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn ba ngày làng:  làm phải, làm quấy đều có người hay biết và đồn đãi xa gần
Tiếng ong tiếng ve:  lời thủ thỉ xui giục.
To gan lớn mật:  bạo dạn, dám làm những việc to tát, nguy hiểm.
Tốt danh hơn lành áo:  ăn ở hiền lành càng sinh nhiều lợi cho có tiếng tốt với đời hơn là lo cái mã cho đẹp.
Tốt gỗ hơn tốt nước sơn:  nên trọng cái thực chất bên trong còn cái vỏ bên ngoài càng lòe loẹt càng tố cáo cái hèn kém bên trong.  Ca dao có câu:  “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người”.
Tốt thì khoe ra, xấu xa đậy điệm:  cái gì tốt thì đem ra khoe, cái gì xấu thì che giấu mất đó là tánh tự nhiên của người thường.  Bởi vậy thấy cái gì tốt của người chớ vội tin rằng tất cả những gì của người ấy cũng đều tốt, biết đâu họ còn nhiều cái xấu đang được che lấp.  Ngược lại, khi biết được cái xấu của người ta, ta nên thản nhiên cho đó là lẽ tự nhiên chớ đừng giận sao người ta gạt mình hoặc moi móc ra mà làm cho người ta phải xấu hổ.
Tốt lễ dễ xin:  nói lên tình trạng tham nhũng, không ngay thẳng. Lễ lỡi làm mù mắt quan xét.
Tới đâu hay đó:  cứ để sự việc xảy ra tự nhiên, hi vọng sẽ tìm được cách đối phó
Tùy cơ ứng biến:  tùy việc xảy ra mà tìm cách cư xử, không theo khuôn khổ nào.
Tự ti mặc cảm:  tủi phận vì thấy thấp kém, dầu có nhiều chỗ khác bằng, hơn người.
Tương kính như tân:  vợ chồng nên kính trọng như khách mới sống cả đời với  nhau được.
Tửu nhập ngôn xuất:  uống rượu vào, say sưa ăn nói lung tung.

TH
Tha phương cầu thực:  đi làm ăn ở xứ xa.
Thả mồi bắt bóng:  bỏ cái đã nắm trong tay để theo tìm cái mới rồi đặt hy vọng vào
Thác trong hơn sống đục:  giữ lòng trong trắng mà chịu chết hơn làm việc nhuốc nhơ để được sống.
Thay trắng đổi đen:  mưu mẹo gian xảo, thay đổi sự việc
Thay lòng đổi dạ:  ăn ở bội bạc với người cũ, trước thương sau ghét, trước trung hậu, sau phản
Tham bữa cỗ bỏ bữa cày:  bữa cỗ ngon cũng kém hơn bữa cày
Tham quyền cố vị:  ham quyền chức mà tìm đủ cách để củng cố địa vị không kể quyền lợi chung của dân của nước, người nước nào cũng nhiều kẻ như vậy
Tham sinh úy tử:  thói thường người ta ai cũng ham sống sợ chết.
Tham tài hiếu sắc:  người nữ muốn lấy chồng giỏi, người nam muốn lấy vợ đẹp
Tham thì thâm:  người tham lam hay làm điều càn dỡ không cân nhắc lợi hại.
Tham thực cực thân:  ham ăn, ăn nhiều quá thường sinh hại thân.  Vì quá tham lam danh lợi mà làm điều phi pháp phải tù đày cực khổ.
Tham trăng quên đèn:  mê người có sắc đẹp hơn hoặc giàu có hơn mà ruồng rẫy vợ/chồng cũ
Tham vàng bỏ nghĩa:  vì miếng mồi danh lợi mà phải bỏ cái nghĩa đáng lẽ mình phải giữ đối với một người nào đó.
Thanh thiên bạch nhật:  thời gian giữa ban ngày
Thao thao bất tuyệt:  nói hay viết cách trôi chảy, không vấp
Thăm ván bán thuyền:  Người bội bạc, vừa quen  người mới, đã phụ bạc người cũ. Vừa biết có ván tốt, đã tính bán chiếc thuyền đang dùng.
Thắm lắm phai nhiều: cái gì quá độ cũng chóng nhạt phai
Thằng chết cãi thằng khiêng:  đã thất bại lại còn chống chế với người đang tìm phương cách cứu mình.
Thắt lưng buộc bụng:  ăn tiêu dè dặt, tiết kiệm lại, sợ thiếu thốn về sau.
Thầy bói nói dựa:  phần nhiều thầy bói chỉ dựa theo lời hay sắc mặt của thân chủ mà đoán, nếu thấy sai họ mau miệng sửa lại.
Thấy của tối mắt:  thấy tiền của nhiều quá thì động lòng tham, không nghĩ đến nhân nghĩa hay luật pháp.
Thấy người sang bắt quàng làm họ:  thấy ai được thiên hạ yêu chuộng hay kính nể thì tìm cách làm thân.
Thần giao cách cảm:  sự giao cảm giữa hai người ở cách xa hai nơi.
209.                Thập tử nhất sinh:   lúc bệnh nặng, coi như sắp chết
210.                Thất bại là mẹ thành công:  nhờ thất bại mà có kinh nghiệm để thành công. Không nên thối chí mà bỏ.
211.                Thật thà là cha quỷ quái:  gian dối xảo quyệt thế nào cũng không quí bằng thành thật
212.                Thật thà như đếm:  thật thà lắm, việc chi biết chắc mới nói chứ không đoán chừng.
213.                Theo đóm ăn tàn:  nịnh bợ,  dù hưởng lợi không là bao
214.                Thề sống thề chết:  nhất định đem mạng sống ra thề cho người ta tin.
215.                Thế thái nhân tình:  thói đời và tình người.
216.                Thiên thời, địa lợi, nhân hòa:  ba điều kiện chính để thành công: vận trời, thế đất, lòng người
217.                Thọc gậy bánh xe:  bày ra điều làm trở ngại công việc của người ta đang tiến hành.
218.                Thợ may ăn giẻ, thợ mã ăn hồ:  làm nghề gì cũng có ăn gian chút đỉnh đó là việc nhỏ mọn thường tình, nên bỏ qua
219.                Thơm (Tốt) danh hơn lành áo:  ở đời giàu nghèo mà được tiếng tốt, hơn giàu mà mang tiếng xấu.
220.                Thua trời một vạn, không bằng thua bạn một ly: thua Trời là tự nhiên, đừng để thua bạn cùng giống với mình
221.                Thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn:  trong nhà vợ chồng hòa thuận nhau thì việc chi dầu khó mấy cũng xong.
222.                Thuốc đắng giã tật, lời thật mất lòng:    thuốc đắng trị mau lành bệnh, lời thật khó nghe nhưng rất có ích để nên tốt.
223.                Thức khuya mới biết đêm dài, ở lâu mới biết lòng người có nhân: thời gian minh chứng cho biết hơn thiệt
224.                Thương con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi:  nuông chiều con là làm cho con hư hỏng, không nhất thiết phải đánh đập, nhất là khi nóng nảy.

TR
225.                Tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa:  Chê người hay việc không vừa ý, lại gặp người hay việc khác còn tệ hơn nhiều.
226.                Tránh  ma chẳng xấu mặt nào: thua người mạnh hơn mình về sức lực, không bị ai chê cười cả.
227.                Trăm con ếch cũng bắt được con ếch:  chịu khó và bền chí thế nào cũng thành công.
228.                Trăm hay không bằng tay quen:  giỏi về lý thuyết mà không thực hành cũng không bằng người làm quen giàu kinh nghiệm.
229.                Trăm voi không được bát nước xáo (giống như mười voi không được bát nước xáo): nói nhiều, hứa nhiều không có kết quả
230.                Trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết:  hai người, hai phe, hai nước đánh nhau, dân chúng hay người ở gần bị họa lây.
231.                Trâu chậm uống nước đục:  chậm chân thì dùng của thừa thãi, chịu nhiều thiệt thòi
232.                Trẻ cậy cha, già cậy con:  con còn trẻ nhờ cha mẹ nuôi dưỡng, che chở.  Khi cha mẹ già, nhờ lại con, đó là quan niệm gia đình của người phương Đông.
233.                Trẻ vui nhà, già vui chùa:  trẻ con làm cho gia đình vui vẻ, nhờ chúng hay đùa giỡn,  người già siêng đi chùa, nhà thờ làm vui cảnh chùa nhà thờ
234.                Trèo cao té đau:  càng ham ở địa vị cao, khi thất bại, càng khổ đau
235.                Trên đe dưới búa:  kẹt giữa hai sức mạnh không lối thoát.
236.                Trên kính dưới nhường:  cách ở đời của người lịch sự hay đứa con hiếu thảo
237.                Trêu cò, cò mổ mắt:  khinh người kém thế hay yếu sức, trong đường cùng để bảo vệ danh dự người ta sẽ chống lại mình.
238.                Trói gà không chặt:  người yếu sức không làm nên việc lớn.
239.                Trong nhà chưa tỏ, ngoài ngõ đã hay:  người có trách nhiệm trong nhà chưa hay biết mà tiếng tăm đã đồn đãi xa gần.
240.                Trong đầm gì đẹp bằng sen, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn:  chung lộn với kẻ xấu mà không giống họ.
241.                Trốn việc quan đi ở chùa:  tìm cách tránh làm phận sự gia đình.
242.                Trông gà hóa cuốc:  không tinh mắt, trông vật này ra vật khác.  Lầm lẫn việc này với việc kia.
243.                Trông mặt mà bắt hình dong, con lợn có béo thì lòng mới ngon:  xem tướng người mà đối xử cách trọng hay khinh
244.                Trống đánh xuôi  kèn thổi ngược:  cùng phe mà kẻ nói này, kẻ nói khác.
245.                Trời cao có mắt:  Trời ở trên cao thấu hiểu mọi việc làm thiện ác của người đời để rồi chẳng sớm thì muộn cũng thưởng phạt.
246.                Trời cho hơn lo làm:  mọi của do làm ra hay do may mắn đều có gốc là do trời cho cả.
247.                Trời đánh còn tránh bữa ăn:  việc quan trọng cách nào, cũng phải lịch sự, đợi người ta dùng bữa xong sẽ nói, sẽ làm
248.                Trời sinh trời dưỡng:  Trời đã sinh con người, đồng thời cũng lo nuôi dưỡng, nếu ta siêng năng làm việc thì không sợ chết đói, có bệnh cũng cứ bình tĩnh lo thuốc thang.

V
249.                Vạch áo cho người xem lưng:  bày cái dở cái xấu của mình hay của phe mình một cách vô ý thức cho người ta thấy.
250.                Vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm:  vắng người có quyền trong nhà, kẻ dưới vượt quyền, lên mặt ức hiếp bạn bè
251.                Vắt cổ chày ra nước:  ráo riết, khai thác triệt để.
252.                Vắt chanh bỏ vỏ:  bạc bẽo, dùng đến hết sức người ta, giục bỏ không thương tiếc
253.                Vặt đầu cá, vá đầu tôm:  lấy cái nọ bù vào cái kia, thiếu vẫn hoàn thiếu
254.                Vẽ đường cho hươu chạy:  chỉ đường cho người rành việc hơn mình.
255.                Việc người thì sáng, việc mình thì quáng:  việc của người, mình không trách nhiệm thì giải quyết dễ dàng, việc của mình thì khó giải quyết êm đẹp.  Lỗi lầm của người, mình đứng ngoài trông thấy rất rõ, lỗi của mình thì mù mờ, giấu nhẹm
256.                Việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng:  việc của mình, không bị ai thúc giục, bỏ qua không lo đến, việc của người khác thì tỏ ra sốt sắng giúp đỡ
257.                Vỏ quít dày, móng tay nhọn:  dầu khôn ngoan, lanh lợi, xảo trá đến đâu, cũng có kẻ đồng tài, hoặc cao hơn chống lại.
258.                Vong ân bội nghĩa:  lời chê trách người đã mang ơn rồi tỏ ra bội bạc với người ấy.
259.                Vơ đũa cả nắm:  không phân biệt người tốt kẻ xấu, việc hay việc dở.
260.                Vụng chèo, khéo chống:  có lỗi nhưng tìm cách chống đỡ để khỏi chịu trách nhiệm
261.                Vụng múa, chê đất lệch:  làm vụng về hoăc sai lầm rồi kiếm cớ chạy tội.
262.                Vừa ăn cướp, vừa la làng:  làm quấy lại to tiếng thanh minh, đánh lạc hướng

X
263.                Xanh vỏ đỏ lòng:  tuy xấu bên ngoài, nhưng lòng dạ rất tốt
264.                Xấu đều hơn tốt lỏi:  đều đặn với nhau, còn hơn điều tốt mà so le lệch lạc
265.                Xấu gỗ hơn tốt nước sơn:  hôn nhân: trọng người có đức tốt hơn người có sắc đẹp
266.                Xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ:  người xấu bụng thì hay khoe tốt cho mình, người dốt lại hay mượn lời của thánh hiền nói để loè người ta.
267.                Xôi hỏng bỏng không:  để hư việc lớn, quay sang việc nhỏ cũng hỏng luôn.
268.                Xởi lởi trời gởi của cho, so đo trời co ro lại:  rộng rãi với người, Trời ở rộng cho, keo kiết với người, Trời không cho nữa
269.                Xúc tép nuôi cò:  uổng công làm việc vô ích cho ai mà bị phản bội

Y
270. Y phục xứng kì đức:  người địa vị nào đối xử, ăn mặc theo vị ấy
271.Yêu con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi:  cha mẹ nuông chiều, con sẽ hư
272.Yêu nên tốt, ghét nên xấu:  Tình yêu che lấp mọi khuyết điểm, khó khăn
273Yêu nhau lắm, cắn nhau đau:  càng yêu nhiều, khi giận nhau càng trả đũa mạnh
274.Yêu nhau như chị em gái, dái nhau như chị em dâu, đánh nhau vỡ đầu là anh em rể:  cùng khúc ruột thì tự nhiên thân nhau hơn
275.Yêu trẻ trẻ đến nhà, kính già, già để tuổi cho:  trẻ yêu ai yêu nó, già thích ai trọng mình.
Authors get paid when people like you upvote their post.
If you enjoyed what you read here, create your account today and start earning FREE STEEM!